Vàng da là gì? Các công bố khoa học về Vàng da

Vàng da là một loại da màu vàng hoặc có sắc tố vàng, thường được sử dụng để mô tả màu da của người da vàng hoặc người châu Á. Màu vàng da phụ thuộc vào sự sản x...

Vàng da là một loại da màu vàng hoặc có sắc tố vàng, thường được sử dụng để mô tả màu da của người da vàng hoặc người châu Á. Màu vàng da phụ thuộc vào sự sản xuất melanin trong da, chịu ảnh hưởng của di truyền, môi trường và mức độ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Vàng da là một thuộc tính của da mà màu da chủ yếu có sắc tố vàng. Sự khác biệt trong màu da của con người phụ thuộc vào mức độ và tỉ lệ của các loại sắc tố da, đặc biệt là melanin.

Melanin là một chất màu tự nhiên được sản xuất bởi tế bào da và có khả năng hấp thụ và tản trở tia cực tím từ ánh nắng mặt trời. Có hai loại melanin chính: eumelanin (sẫm màu) và pheomelanin (nhạt màu). Màu sắc của da được xác định bởi tỉ lệ giữa hai loại melanin này.

Người có da vàng có nồng độ melanin cao hơn so với người có da trắng. Sự tăng melanin là một phản ứng tự nhiên của cơ thể để bảo vệ da khỏi ánh nắng mặt trời. Ánh sáng mặt trời và tia tử ngoại (UV) có thể gây hại cho da, gây cháy nám, tăng nguy cơ ung thư da và gây lão hóa da. Vì vậy, da vàng thường có khả năng chống nắng tốt hơn so với da trắng.

Da vàng thường được gắn liền với nhóm dân tộc châu Á, trong đó da vàng là một biểu tượng đẹp và được mong muốn. Tuy nhiên, màu da vàng có thể có sự biến động và sự đa dạng trong cả nhóm dân tộc châu Á và ở những người khác nhau.

Ngoài da vàng, các màu da phổ biến khác bao gồm da trắng, da hồng, da đen và da nâu. Màu da phụ thuộc vào sự phối hợp của nhiều yếu tố khác nhau bao gồm chất bạch tạng, lượng melanin, mức độ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và di truyền.
Vàng da trong ngữ cảnh châu Á thường chỉ đến màu da có sắc tố vàng nhạt hoặc trung bình. Đây là một thuộc tính da phổ biến ở người dân tộc châu Á, nhưng không phải tất cả mọi người đều có màu da vàng. Một số người có da da trắng hoặc da hồng nhạt hơn. Màu da vàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm:

1. Sắc tố melanin: Sắc tố melanin chịu trách nhiệm cho màu sắc da. Người có nồng độ melanin cao hơn trong da thường có màu da nâu hơn. Nhưng trong trường hợp da vàng, melanin được sản xuất ở mức độ vừa phải, tạo thành một lớp màu vàng nhạt hoặc trung bình.

2. Di truyền: Màu da được di truyền từ thế hệ cha mẹ đến con cái. Nếu cả ba cha mẹ hoặc nhiều thế hệ trong gia đình có màu da vàng, thì khả năng con cái cũng sẽ có màu da tương tự là cao.

3. Môi trường và tiếp xúc với ánh sáng mặt trời: Ánh sáng mặt trời là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến màu sắc da. Tác động của ánh sáng mặt trời có thể kích thích tế bào da sản xuất melanin, dẫn đến tăng cường màu da vàng. Nhưng sự tiếp xúc quá mức với ánh sáng mặt trời có thể dẫn đến nhược điểm và tổn thương da.

Vàng da là một thuộc tính đa dạng vàtừng người có mức độ và màu sắc khác nhau. Không chỉ chịu ảnh hưởng từ di truyền và môi trường, màu sắc da cũng có thể thay đổi trong suốt cuộc sống dựa trên nhiều yếu tố bên ngoài như ánh sáng mặt trời, tuổi tác, chế độ ăn uống và chăm sóc da.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vàng da":

Quản lý tăng bilirubin máu ở trẻ sơ sinh đủ tháng (35 tuần tuổi thai trở lên) Dịch bởi AI
American Academy of Pediatrics (AAP) - Tập 114 Số 1 - Trang 297-316 - 2004

Vàng da xảy ra ở hầu hết trẻ sơ sinh. Mặc dù hầu hết các trường hợp vàng da là lành tính, nhưng do khả năng gây độc của bilirubin, nên các trẻ sơ sinh cần được theo dõi để xác định những trẻ có nguy cơ phát triển tăng bilirubin máu nặng và, trong trường hợp hiếm hoi, xuất hiện bệnh não do bilirubin cấp tính hoặc kernicterus. Mục tiêu của hướng dẫn này là giảm tỉ lệ tăng bilirubin máu nặng và bệnh não do bilirubin đồng thời giảm thiểu các rủi ro không mong muốn như lo lắng của người mẹ, giảm việc cho con bú và các chi phí hoặc điều trị không cần thiết. Mặc dù gần như luôn có thể phòng ngừa kernicterus, các trường hợp vẫn tiếp tục xuất hiện. Những hướng dẫn này đưa ra khung chuẩn để phòng ngừa và quản lý tăng bilirubin máu ở trẻ sơ sinh đủ tháng (35 tuần tuổi thai trở lên). Trong mọi trường hợp, chúng tôi khuyến nghị rằng các nhà lâm sàng: 1) khuyến khích và hỗ trợ việc cho con bú hiệu quả; 2) thực hiện đánh giá hệ thống trước khi xuất viện để xác định nguy cơ tăng bilirubin máu nặng; 3) cung cấp theo dõi sớm và chuyên sâu dựa trên đánh giá nguy cơ; và 4) khi cần thiết, điều trị trẻ sơ sinh bằng quang trị liệu hoặc trao đổi máu để ngăn ngừa phát triển tăng bilirubin máu nặng và, có thể, bệnh não do bilirubin (kernicterus).

#tăng bilirubin máu #trẻ sơ sinh #vàng da #quang trị liệu #kernicterus #bệnh não do bilirubin #tuần tuổi thai #phòng ngừa #quản lý #đánh giá nguy cơ
Biến đổi các hợp chất α-diazo-carbonyl được xúc tác bởi vàng: tính chọn lọc và sự đa dạng Dịch bởi AI
Chemical Society Reviews - Tập 45 Số 3 - Trang 506-516

Các phản ứng biến đổi diazo được xúc tác bởi vàng thể hiện tính phản ứng và tính chọn lọc rất đặc trưng so với các kim loại quý khác. Bài tổng quan này sẽ tóm tắt các phản ứng biến đổi của các hợp chất α-diazo-carbonyl được xúc tác bởi vàng.

#Biến đổi hợp chất α-diazo-carbonyl #xúc tác vàng #phản ứng diazo #kim loại quý #tính chọn lọc
Ngăn ngừa vàng da sơ sinh bằng din Protoporphyrin IX, một chất ức chế cạnh tranh mạnh quá trình oxy hóa heme. Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 78 Số 10 - Trang 6466-6470 - 1981

Hiệu quả của các metalloporphyrin khác nhau lên hoạt động của enzyme heme oxygenase (EC 1.14.99.3) ở gan đã được kiểm tra nhằm xác định các hợp chất có khả năng ức chế sự thoái biến heme thành sắc tố mật, từ đó có thể được sử dụng để hạn chế sự phát triển của bệnh tăng bilirubin huyết ở trẻ sơ sinh. Trong số chín phức chất metal-protoporphyrin IX (tức là, metal-heme) được nghiên cứu, Sn-heme, Mn-heme, và Zn-heme làm giảm đáng kể hoạt động của heme oxygenase trong thí nghiệm trên chuột. Các metalloporphyrin này hoạt động như những cơ chất cạnh tranh ức chế trong phản ứng của heme oxygenase nhưng tự chúng không bị phân hủy oxi hóa. Sn-heme là chất ức chế enzyme mạnh nhất (Ki = 0.011 microM) ở gan, lách, thận và da. Khi Sn-heme được tiêm vào động vật sơ sinh trong vòng 72 giờ sau sinh, nó ngăn chặn sự gia tăng hoạt động của heme oxygenase sau sinh ở nhiều mô khác nhau. Tác động của nó trên mức enzyme rất nhanh và kéo dài. Việc tiêm Sn-heme cũng hoàn toàn ngăn ngừa sự phát triển của bệnh tăng bilirubin huyết sau sinh. Hiệu quả của metalloporphyrin này trong việc hạ mức bilirubin huyết thanh tăng cao ở trẻ sơ sinh diễn ra nhanh chóng (trong vòng 1 ngày) và duy trì suốt 42 ngày sau sinh. Không thấy có tác dụng phụ nào khi điều trị bằng Sn-heme ở trẻ sơ sinh. Điều này cho thấy một metalloporphyrin tổng hợp là chất ức chế cạnh tranh mạnh quá trình oxy hóa heme có thể khi được tiêm vào trẻ sơ sinh, cũng có thể ngăn ngừa bệnh vàng da tăng bilirubin huyết sau sinh. Ý nghĩa lâm sàng tiềm năng của những phát hiện này rất rõ ràng, và đề xuất rằng các tính chất dược lý của Sn-heme và các metalloporphyrin tổng hợp liên quan xứng đáng được nghiên cứu thêm.

#Metalloporphyrin #heme oxygenase #hyperbilirubinemia #neonatology #enzyme inhibition.
Các thành phần dịch lỏng ở các độ sâu khác nhau trong mỏ vàng Sanshandao, bán đảo Jiaodong, Trung Quốc Dịch bởi AI
Geofluids - Tập 13 Số 4 - Trang 528-541 - 2013
Tóm tắt

Mỏ vàng Sanshandao, nằm ở phía tây bắc của bán đảo Jiaodong, đông Bắc Trung Quốc, là một trong những mỏ vàng lớn nhất thuộc tỉnh vàng Jiaodong. Tại đây, quặng kiểu phân tán và kiểu mạch được chứa trong các granitoid thuộc thời kỳ Mesozoi. Sự khoáng hóa và biến đổi chủ yếu bị kiểm soát bởi đứt gãy Sanshandao–Cangshang ở vùng này. Sericite trích xuất từ các đá biến đổi trong vùng khoáng hóa cho một độ tuổi isochron Rb–Sr là 117,6 ± 3,0 Ma. Các dịch lỏng hình thành quặng trong mỏ vàng Sanshandao chứa CO2-H2O-NaCl±CH4 với nhiệt độ thấp đến trung bình và độ mặn thấp. Phân tích vi nhiệt cho thấy nhiệt độ đồng nhất dần giảm từ giai đoạn khoáng hóa sớm (258–416°C) đến giai đoạn khoáng hóa chính (180–321°C) và đến giai đoạn khoáng hóa muộn (112–231°C). Nhiệt độ đồng nhất từ cùng một giai đoạn khoáng hóa gần như giống nhau và không cho thấy sự gia tăng theo độ sâu. Tính chất của các dịch lỏng hình thành quặng gần như không thay đổi trong khoảng cách sâu 2000 m.

CAMELLIA THUONGIANA - MỘT LOÀI TRÀ MI HOA VÀNG MỚI CỦA VIỆT NAM
Dalat University Journal of Science - - Trang 338-344 - 2016
Trà mi Thưởng (Camellia thuongiana Luong, Ann Le & Lau) thuộc họ Chè (Theaceae) đã được mô tả và vẽ hình, đây là một loài trà mi hoa vàng mới, phân bố ở xã Đoàn Kết, huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng. Trên cơ sở dữ liệu hình thái xác nhận loài mới thuộc sect. Chrysantha.
#Camellia #Lâm Đồng #Loài mới #Theaceae #Việt Nam
Nghiên cứu thành phần hóa học của trà hoa vàng (Camellia Quephongnensis Hakoda et Ninh) bằng khối phổ phân giải cao
46 hợp chất đã được phát hiện có mặt trong cao tổng cồn/ nước và 20 hợp chất được phát hiện trong cao chiết phân đoạn ethyl axetat hoa trà hoa vàng Camellia quephongensis Hakoda et Ninh thu tại Quế Phong, Nghệ An bằng việc sử dụng kỹ thuật sắc ký lỏng phân giải cao ghép nối khối phổ. Các nhóm hợp chất chính có mặt trong cả hai cao chiết là flavonoid, phenol và este. Trong cao chiết phân đoạn ethyl axetat không thấy sự có mặt của đường và dẫn xuất đường, amino axit và amin và hàm lượng các chất chính như flavonoid, phenol, este đã tăng lên đáng kể so với cao cồn/ nước. Kết quả phân tích này là phù hợp với việc sử dụng dung môi ethyl axetat để làm giàu các hoạt chất poliphenol từ trà hoa vàng. Ngoài ra cũng xác định được sự có mặt của các nguyên tố vi lượng rất đáng quí trong hoa trà hoa vàng Camellia quephongensis như germanium, selenium. Đây là những công bố bước đầu về kết quả nghiên cứu thành phần hóa học của hoa trà hoa vàng Camellia quephongensis.
#Camellia quephongensis #Camellia sp #poliphenol #Trà hoa vàng #khối phổ phân giải cao
Xác định hợp chất gây đổi màu xương vàng sau khi tiếp xúc với alpha-glycosyl isoquercitrin ở chuột Sprague-Dawley Dịch bởi AI
Fühner-Wieland's Sammlung von Vergiftungsfällen - Tập 94 Số 7 - Trang 2413-2421 - 2020
Tóm tắt

Các nghiên cứu trước đây về độc tính trên chuột của alpha-glycosyl isoquercitrin (AGIQ), một flavonol glycoside tan trong nước được chiết xuất từ rutin, cho thấy sự đổi màu xương vàng hệ thống. Nghiên cứu điều tra này được tiến hành để xác định các chất chuyển hoá của AGIQ gây ra hiện tượng đổi màu này. Chuột cái Sprague–Dawley được cho ăn AGIQ trong chế độ ăn với liều lượng 0%, 1.5%, 3.0%, hoặc 5.0% (tương ứng 0, 1735.0, 3480.8, và 5873.7 mg/kg/ngày) trong 14 ngày, sau đó là giai đoạn phục hồi 14 hoặc 28 ngày. Các chỉ số đo lường quercetin trong nước tiểu và các chất chuyển hóa quercetin, quercetin 3-O-glucuronide, kaempferol, và 3-o-methylquercetin của AGIQ trong xương (xương đùi), mỡ trắng và mỡ nâu, và các mẫu não được tiến hành sau khi kết thúc giai đoạn tiếp xúc và mỗi giai đoạn phục hồi. Khám nghiệm đại thể xương đùi cho thấy sự đổi màu vàng tăng dần theo liều lượng và vẫn tồn tại theo cách liên quan đến liều sau cả hai giai đoạn phục hồi. Quercetin, ở mức độ tương ứng với liều AGIQ, được đo trong nước tiểu sau giai đoạn tiếp xúc 14 ngày và, ở nồng độ thấp hơn, sau 14 hoặc 28 ngày khi ngưng tiếp xúc với AGIQ. Tất cả bốn chất chuyển hóa xuất hiện một cách phụ thuộc vào liều trong xương đùi sau 14 ngày ăn uống, chỉ quercetin, quercetin 3-O-glucuronide, và 3-o-methylquercetin được tìm thấy trong các giai đoạn phục hồi. Quercetin, quercetin 3-O-glucuronide, và 3-o-methylquercetin được phát hiện trong mỡ trắng (cùng với kaempferol), mỡ nâu (trừ quercetin do sự can thiệp phân tích), và các mẫu não, cho thấy sự có sẵn hệ thống của các chất chuyển hóa. Tổng hợp, những dữ liệu này ngụ ý quercetin, quercetin 3-O-glucuronide hoặc 3-o-methylquercetin (hoặc sự kết hợp của chúng) là các chất chuyển hoá có khả năng nhất của AGIQ gây ra biến đổi màu vàng của xương ở chuột được cho ăn AGIQ.

#Alpha-glycosyl isoquercitrin #Flavonol glycoside #Yellow bone discoloration #Quercetin metabolites #Rat toxicity study #Systemic availability
Đánh giá khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cấp hộ gia đình tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Tóm tắt: Huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng là khu vực chịu ảnh hưởng mạnh của thiên tai và biến đổi khí hậu (BĐKH). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xây dựng bộ chỉ số đánh giá khả năng thích ứng (KNTƯ) với BĐKH cấp hộ gia đình được thực hiện tại huyện Hòa Vang dẫn đến thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng các chương trình nâng cao KNTƯ với BĐKH của cộng đồng. Bài báo này thực hiện xây dựng bộ chỉ số đánh giá KNTƯ cấp hộ gia đình gồm 31 chỉ số của các hợp phần: con người, kinh tế, sinh kế, xã hội, khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng và quản trị cho huyện Hoà Vang. Kết quả áp dụng bộ chỉ số đánh giá KNTƯ với BĐKH cho thấy mức độ nhận thức, kỹ năng và kinh nghiệm thích ứng với BĐKH của các hộ gia đình ở huyện Hòa Vang vẫn còn thấp. Khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng, sinh kế và quản trị là các yếu tố chi phối KNTƯ với BĐKH cấp hộ gia đình. Chỉ số KNTƯ của các xã trong huyện Hòa Vang tương đối đồng đều từ 0,521 - 0,584, cao nhất tại xã Hòa Khương và thấp nhất tại xã Hòa Bắc. Bộ chỉ số KNTƯ, các quy trình và phương pháp đánh giá sử dụng trong bài báo có thể được mở rộng áp dụng cho các khu vực khác của Việt Nam.Từ khoá: Khả năng thích ứng; Hộ gia đình; Bộ chỉ số; Biến đổi khí hậu; Huyện Hoà Vang.
Tổng số: 194   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10